Bệnh nhân đái tháo đường mắc biến
chứng thận, là do đường huyết tăng cao kéo dài gây thương tổn hệ thông lọc của
thận, dẫn đến chức năng thận suy giảm.
Triệu chứng của bệnh thường không
xuất hiện ở giai đoạn đầu, tuy nhiên khi các triệu chứng xuất hiện như phù, buồn
nôn và nôn, ngứa da… thì bệnh đã vào giai đoạn cuối. Người bệnh nên đi khám và
làm các xét nghiệm để sớm phát hiện các thương tổn thận do đái tháo đường gây
ra, để có phương pháp điều trị hạn chế thương tổn và làm chậm tiến trình bênh.
Người bệnh tiểu đường gặp phải
biến chứng về thận là một trong những biến chứng nguy hiểm nhất của bệnh tiểu
đường và là nguyên nhân hàng đầu của bệnh thận mạn tính, suy thận.
Các triệu chứng của bệnh thận đái tháo đường
Các triệu chứng của bệnh thận tiểu
đường thường xảy ra khi bệnh ở giai đoạn cuối và tương tự các triệu chứng của bệnh
thận mạn tính gồm:
Nước tiểu bất thường: có bọt hoặc
bong bóng, nhiều hoặc ít hơn bình thường…
Phù: mức lọc cầu thận suy giảm
gây ứ nước, ứ muối trong cơ thể. Thường là phù toàn thân, từ mí mắt xuống bàn
chân, da trắng nhạt.
Thiếu máu: rất khó hồi phục do
thận không sản xuất đủ hormone tạo hồng cầu, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, chóng
mặt, hoa mắt, thiếu tập trung…
Ngứa ở da: do sự tích tụ với nồng
độ cao của các chất thải trong máu..
Mất cảm giác ngon miệng
Buồn nôn và nôn: do sự tích tụ
quá nhiều các chất thải trong máu.
Khó thở: do ứ dịch tại phổi hoặc
thiếu máu.
Ngăn ngừa và điều trị biến chứng thận do tiểu đường
Kiểm soát tốt đường huyết và các
nguy cơ, hoàn toàn có thể phòng ngừa được biến chứng suy thận. Kiểm soát tốt đường
huyết có thể làm giảm đến 1/3 nguy cơ xuất hiện protein niệu vi thể và giảm 1/2
nguy cơ tiến triển từ protein niệu vi thể thành protein niệu đại thể.
Khi đã xuất hiên biến chứng trên
thận cần có kế hoạch điều trị tích cực cũng như chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp
lý để ngăn ngừa biến chứng thận nặng lên và hạn chế nguy cơ suy thận nặng phải
điều trị bằng cách lọc máu thường xuyên hoặc ghép thận.
Kiểm soát đường huyết: người bệnh
luôn giữ ổn định đường huyết trong giới hạn cho phép (< 7mmol/l lúc đói
và< 10mmol/l sau ăn 2h).
Kiểm soát huyết áp: giữ mức huyết
áp ổn định ở mức ≤ 120/80mmHg. Để giảm huyết áp và giữ ở mức ổn định bệnh nhân
cần thực hiện: giảm cân (nếu có thừa cân); ăn nhạt, bỏ rượu, thuốc lá và tập thể
dục đều đặn. Ngoài ra có thể phải sử dụng thuốc để hạ huyết áp.
Chế độ ăn hợp lý: Giảm chất đạm để
thận không quá tải và ít mất protein qua thận hơn.Tuy nhiên với người bị bệnh
thận tiểu đường, chế độ ăn giới hạn protein phải rất thận trọng và cần có sự
đánh giá của chuyên gia dinh dưỡng. Do mất một lượng protein trong nước tiểu, đồng
thời bệnh nhân còn bị rối loạn chuyển hóa, làm tăng sự phân giải protein. Vì vậy,
người bệnh có thể sẽ cần phải bổ sung protein để ngăn ngừa thiếu hụt protein.
Vì vậy cần phải có sự đánh giá của chuyên gia dinh dưỡng để xác định tình trạng
protein và nhu cầu đạm của cơ thể trước khi bắt đầu một chế độ ăn với hàm lượng
protein thấp.
Hầu hết những người mắc bệnh tiểu
đường cần tới khoảng 10% đến 20% nhu cầu năng lượng từ protein, tương đương với
khoảng 0,8 1,0 gram protein cho mỗi kg trọng lượng cơ thể, căn cứ vào chức
năng thận, tình trạng và nhu cầu dinh dưỡng của mỗi người.
Khi bệnh nhân đái tháo đường suy
thận giai đoạn cuối, thận mất gần như hoàn toàn chức năng thì điều trị bằng
phương pháp lọc máu chu kỳ (2 4 lần mỗi tuần) là cần thiết để duy trì cuộc sống
cho bệnh nhân.
xem thêm về tiểu đường:
xem thêm về tiểu đường:
http://botania.com.vn/tin-tuc/Bien-chung-nguy-hiem-cua-benh-tieu-duong.html |